Wednesday, April 27, 2011

Chuyện thần kỳ ở Princeton

More...

Bang New Jersey nhỏ xíu có một
thị trấn mang tên Princeton. Tuy chỉ có hơn 13 nghìn dân nhưng thị trấn
cổ kính thanh bình này nổi tiếng khắp thế giới vì tại đây có trường đại
học Princeton và Viện Nghiên cứu cấp cao (IAS) , hai thánh đường của các
nhà khoa học toàn cầu.







 



ĐH Princeton là một trường tư thục thành
lập năm 1746, tuổi đời cao thứ 4 trong số khoảng 3700 trường đại học ở
Mỹ. Quy mô trường khá nhỏ, tổng số nhân viên, giáo viên và học viên chỉ
vào khoảng hơn 6 nghìn người, không có các học viện thu hút nhiều thí
sinh như Y, Luật và Quản trị kinh doanh, tuy thế ĐH Princeton luôn luôn
đứng hàng đầu trong các bảng xếp hạng ĐH toàn thế giới, trong đó có
thành tích đào tạo được 2 Tổng thống và 20 chủ nhân giải Nobel.

Ngoài ra ĐH Princeton còn đặc biệt nổi
tiếng về không khí học thuật tự do, khoan dung và tình thương yêu đùm
bọc giữa các nhà khoa học. Trong khuôn viên bao la xanh rợp bóng cây của
nhà trường từng xuất hiện vô số chuyện thần kỳ chẳng hạn như câu chuyện
về Jr. John Forbes Nash.



“Người này là một thiên tài”

Jr. John Forbes Nash ra đời trong một
gia đình trí thức có cha là kỹ sư điện tử, mẹ là giáo viên dạy tiếng Anh
và tiếng La Tinh. Từ bé Nash đã tỏ ra lập dị khác người, tính tình
hướng nội, không ham chơi đùa mà chỉ thích đọc sách. Ở trường tiểu học,
cậu bị thầy giáo chê là đầu óc “có vấn đề” vì hay dùng những cách kỳ
quặc để giải các bài toán. Lên trung học, biểu hiện đó càng khiến mọi
người ngạc nhiên: có lần khi giải bài tập toán, thày giáo viết đầy bảng,
thế mà Nash chỉ dùng vài thao tác đơn giản là tìm ra lời giải.



Thấy con có năng khiếu toán, cha mẹ cho Nash học chương trình toán cao
cấp ngay khi cậu còn đang ở trung học. Nhờ học giỏi, Nash nhận được học
bổng của Học viện Công nghệ Carnegie. Tại đây anh được thầy giáo toán
gọi là Gauss trẻ, một cái tên đầy vinh dự, vì mọi người đều biết trong
giới toán học xưa nay chưa ai vượt qua được thần đồng toán học người Đức
Carl Friedrich Gauss (1777-1855).



Năm đầu tiên Nash học ngành hóa, năm sau chuyển sang học toán. Một lần
anh đến gặp thầy hướng dẫn khoa học là giáo sư R.J.Duffin, trình bầy một
phát hiện toán học mới của mình. Ông thầy vô cùng ngạc nhiên khi thấy
cậu học trò trẻ này đã tự chứng minh được Định lý điểm bất động Brouwer
(Brouwer Fixpoint Theorem) mà cậu chưa biết rằng trước đây đã có nhà
toán học làm được điều đó.



Nash lấy bằng thạc sĩ ở tuổi 20 (năm 1948) và chuẩn bị làm nghiên cứu
sinh tiến sĩ tại một trong 4 trường đại học đồng thời nhận anh: Harvard,
Princeton, Chicago và Michigan. Trong thư giới thiệu Nash đi học tiếp,
GS Duffin chỉ viết mỗi một câu: This man is a genius (Người này là một
thiên tài).



Nhận xét ấy khiến ông Solomon Lefschetz Chủ nhiệm khoa Toán ĐH Princeton
hết sức quan tâm. Ông lập tức viết thư mời Nash sớm đến Princeton và
hứa cấp cho anh học bổng John S. Kennedy trị giá 1150 USD, một số tiền
rất lớn ngày ấy và lớn hơn học bổng Harvard đã hứa cấp cho Nash.



Princeton là trung tâm toán học toàn cầu, nơi đây chẳng những có Albert
Einstein vĩ đại mà còn có Von Neumann nhà toán học đại tài, người đặt
nền móng cho khoa học máy tính, lý thuyết toán học cho bom khinh khí và
kinh tế học toán lý. Một địa điểm như thế là nơi mơ ước của bất cứ nhà
toán học trẻ tuổi nào. Nash sao có thể bỏ qua thánh đường khoa học này.



Bầu không khí học thuật tự do, khoan dung của Princeton khiến Nash như
cá gặp nước, thỏa sức vẫy vùng. Anh tự tìm lấy đề tài nghiên cứu: đó là
lý thuyết cân bằng (equilibrium theory), một phần trong lý thuyết trò
chơi ngày ấy còn mới lạ.



John Nash nhanh chóng trở thành ngôi sao mới trên bầu trời Princeton.
Các bạn học xì xào: anh chàng này có chút lập dị nhưng cực kỳ thông
minh. Lloyd Stowell Shapley (sau này là chuyên gia lý thuyết trò chơi
nổi tiếng ở ĐH Los Angeles) nhận xét Nash khó hòa hợp với mọi người
nhưng tư duy logic của anh rất sắc bén và tuyệt đẹp.



Trong hai năm 1950 và 1951, Nash công bố mấy bài báo khoa học, trong đó
có 2 bài quan trọng: Điểm cân bằng trong trò chơi N người (Equilibrium
Points in N-person Games) và Trò chơi bất hợp tác (Non-cooperative
Games). Anh đề xuất và định nghĩa khái niệm Cân bằng bất hợp tác
(Non-cooperative equilibria, sau này gọi là Cân bằng Nash, Nash
equilibrium), một đột phá khuôn khổ của Trò chơi kết cục zero (zero-sum
game). Định nghĩa này cùng với định nghĩa Tình cảnh khó khăn của tù nhân
(Prisoner’s dilemma) do thầy hướng dẫn của Nash là Albert W. Tucker xác
lập năm 1950 đã đặt nền móng cho lý thuyết trò chơi bất hợp tác.



Cân bằng Nash trở thành nền tảng lý luận cho Trò chơi hai người kết cục
phi zero (Two person non zero sum game) là một khái niệm rất cao siêu
khó hiểu, một bước phát triển lớn so với Trò chơi hai người kết cục zero
do Von Neumann và Oskar Morgenstern đưa ra hồi thập niên 40.



Lý thuyết trò chơi hiện nay thường nói chính là lý thuyết trò chơi bất
hợp tác; nó trở thành công cụ đắc lực để phân tích tình thế kinh tế
trong cạnh tranh thương mại và đàm phán thương mại. Nhà kinh tế học phát
triển Robert M. Solow (Nobel kinh tế 1987) nói chính là nhờ cống hiến
của Nash mà lý thuyết trò chơi trở thành lý thuyết đầy sức sống dùng để
phân tích kinh tế hiện đại.



Lý thuyết này nghiên cứu hành vi tương tác sách lược của mọi người. Nó
nghiên cứu làm thế nào để trong nền kinh tế thị trường, con người có thể
tự nguyện đưa ra những quy chế hữu hiệu được mọi người tuân theo và
thực hành, nhằm tăng tiến cơ chế phúc lợi của xã hội. Nó là cơ sở để
giúp con người hiểu biết sâu sắc các hành vi kinh tế và các vấn đề xã
hội, vì thế nó được ứng dụng ngày một nhiều trong kinh tế học cũng như
nhiều ngành khoa học xã hội-nhân văn khác, chẳng hạn chính trị học.



Lý thuyết trò chơi ngày nay đã trở thành một phương pháp nghiên cứu dùng trong toàn bộ ngành khoa học xã hội.



Tên của Nash gắn trong thuật ngữ Nash Equilibrium và Nash embedding
theorem và xuất hiện trong các sách giáo khoa toán học, kinh tế học, các
luận văn sinh học tiến hóa, các trước tác chính trị học. Nash đem lại
cho lý thuyết trò chơi các khái niệm toán học mới có tính cách mạng,
nhất là khái niệm Nash embedding theorem. Ngay Einstein đương thời cũng
thừa nhận chỉ khi nào đầu óc tỉnh táo lắm ông mới thực sự hiểu các khái
niệm đó.



Các nghiên cứu nói trên được tập hợp trong bản luận án tiến sĩ 28 trang
của Nash viết về lý thuyết Trò chơi bất hợp tác và trở thành căn cứ khoa
học để hơn 40 năm sau Nash được trao giải Nobel kinh tế (năm 1969 mới
thành lập giải này).



Ngày 13/7/1950, đúng hôm sinh nhật lần thứ 22, John Nash được trao học vị tiến sĩ toán.



Thành tựu của Nash xuất sắc tới mức giới toán học thế giới đều coi anh
là bậc thầy về lý thuyết trò chơi. Tạp chí Fortune nổi tiếng số tháng
7/1958 gọi John Nash là ngôi sao mới sáng nhất của nền tân toán học nước
Mỹ.



Nash ở lại ĐH Princeton một năm làm công tác giảng dạy và kiêm chức cố
vấn cho Công ty RAND, một think tank hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực
quân sự (chủ yếu là không quân) thời kỳ chiến tranh lạnh.



Về sau, Nash chuyển tới Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT) tiếp tục
giảng dạy, đồng thời vẫn tiến hành nghiên cứu, hoàn thành một số công
trình đột phá về hình học đại số (algebraic geometry). Cho tới nay các
nhà toán học MIT vẫn đánh giá Nash có thành tích nghiên cứu “cực kỳ xuất
sắc”.



Tại Massachusetts, trong những giờ dạy toán, Nash làm quen với một trong
hai nữ sinh viên duy nhất của khoa Vật lý – cô Alicia Lardé, con một
ông bác sĩ y khoa người Mỹ gốc El Salvador (một nước nhỏ ở Trung Mỹ). Cô
gái xinh tươi kém anh 5 tuổi nhanh chóng có cảm tình với anh giáo trẻ
tài giỏi, đẹp trai, cao 1,85m, có khuôn mặt quý tộc Anh và phong thái
lịch sự, ứng xử thông minh.



Mùa hè 1956 Nash được MIT cử đến Viện Nghiên cứu cấp cao Princeton làm việc một năm; Alicia đi cùng anh.



Khi trở lại MIT, Nash được đề nghị phong chức danh giáo sư suốt đời.
Tháng 2/1957, anh và Alicia làm lễ thành hôn. Đây là sự việc quan trọng
nhất trong đời Nash, bởi lẽ không có Alicia thì anh không thể sống tới
ngày nay.



Tai họa bất ngờ

Ai cũng tưởng rằng đôi uyên ương
Nash-Alicia sẽ được sống hạnh phúc lâu bền bên nhau, ngờ đâu khi Nash
vừa mới bước sang tuổi 30, cái tuổi tài năng có dịp nở rộ thì anh bị mắc
chứng tâm thần phân liệt, nói thẳng ra là điên dại. Alicia đau lòng
ngán ngẩm nhìn ông chồng thể xác còn đấy nhưng linh hồn thì đã mất.
Dường như bệnh này có tính di truyền, vì con trai họ là John Charles
Martin Nash, một tiến sĩ toán rất giỏi, về sau cũng mắc bệnh đó.







 



Bệnh tâm thần vô cùng quái ác, nó làm
cho bệnh nhân hoàn toàn bị cách ly khỏi xã hội, bạn bè, vợ con. Hầu như
mọi thứ thuốc, mọi sự chăm sóc đều không có hiệu quả. Bất cứ người lao
động trí óc nào khi đã mắc bệnh này thì coi như sự nghiệp đi đứt.



Bệnh bắt đầu phát từ hồi Nash đang giảng dạy tại MIT và tiến triển từ từ; nguyên nhân tại sao thì không ai rõ.



Có người nói đó là hậu quả công việc Nash làm tại Viện Nghiên cứu cấp
cao Princeton. Tại đây ông tham gia nghiên cứu với một nhóm chuyên gia
phương trình vi phân và nhanh chóng có bứt phá quan trọng trong lĩnh vực
phương trình vi phân phi tuyến, khiến nhóm chuyên gia kia kinh ngạc.
Nhưng đúng lúc ấy có tin mấy tháng trước một học giả trẻ người Ý đã
chứng minh được một phần kết quả nghiên cứu của Nash. Tin này khiến Nash
nghĩ rằng chính người Ý kia đã làm ông mất cơ hội được tặng Huy chương
Fields (còn gọi là giải Nobel Toán). Có người nói mối hận ấy làm cho
tinh thần Nash suy sụp và dẫn đến chứng tâm thần phân liệt.



Nhưng Nash phủ nhận điều đó. Sau này trong bản lý lịch gửi Ủy ban xét
giải Nobel, ông cho biết: mùa hè năm 1957, ông bắt đầu chú ý tới một vấn
đề hóc búa nhất trong cơ học lượng tử, đó là sự giải thích nguyên lý
bất định Heisenberg (Heisenberg uncertainty principle), một lĩnh vực bên
ngoài toán học, các nhà khoa học từng tranh luận mãi vẫn chưa thống
nhất với nhau. Nash cũng tranh cãi về vấn đề này với Oppenhelmer cha đẻ
bom nguyên tử Mỹ, Giám đốc Viện Nghiên cứu cấp cao Princeton
(1947-1966); sau đấy ông có viết thư xin lỗi Oppenhelmer về thái độ gay
gắt của mình. Nash cho biết: khi hiểu rằng ý định giải quyết mâu thuẫn
nội tại của thuyết lượng tử là việc làm không lượng sức mình, tâm trạng
ông bị mất cân bằng và có lẽ đó là nguyên nhân phát bệnh tâm thần.



Mùa thu năm 1958, trong một lần trò chuyện với hai sinh viên nước ngoài,
tự dưng Nash thao thao bất tuyệt nói những câu khiến hai người kia ngạc
nhiên không hiểu ra sao. Ông nói hoà bình thế giới đang bị đe dọa, nhân
loại cần thành lập một “chính phủ thế giới” để bảo vệ hoà bình. Một hôm
ông chỉ tờ báo cầm trong tay và nói đây là mật mã của chính phủ người
ngoài hành tinh gửi cho ông. Khi ĐH Chicago mời Nash nhận một chức vụ
rất cao thì ông lại viết thư từ chối với lý do ông phải đi làm “Hoàng đế
châu Nam Cực”. Hồi ấy trường MIT vì muốn giữ Nash nên định đề bạt ông,
khi biết chuyện bức thư kỳ quặc ấy, họ cho là bệnh tâm thần của ông đã
rất nặng.



Nash mắc bệnh hoang tưởng, lúc nào ông cũng nghĩ mình được trao nhiệm vụ
vĩ đại lãnh đạo phong trào hoà bình thế giới. Ông viết rất nhiều thư và
tự lái xe đến sứ quán các nước tại Washington trao thư gửi tới yếu nhân
chính phủ các nước và quan chức Liên Hợp Quốc (LHQ). Trong thư, ông bàn
chuyện lập chính phủ toàn cầu để bảo vệ hoà bình thế giới.



Năm 1962 có lần Nash đề nghị khoa Toán ĐH Princeton chuyển giúp thư của
mình tới lãnh tụ Trung Quốc Mao Trạch Đông, nhưng vì hồi ấy Trung Quốc
và Mỹ chưa có quan hệ ngoại giao nên thư không gửi được. Năm 1967, khi
Trung Quốc đang có “Cách mạng văn hoá”, Nash lại viết thư gửi một đồng
nghiệp cũ ở nước này, trong đó ông mập mờ nhắc đến khả năng xảy ra chiến
tranh hạt nhân tại biên giới Trung Quốc-Liên Xô.



Trên thực tế hồi ấy giới trí thức phương Tây đúng là đang có trào lưu
thân Liên Xô, ưa thích chủ nghĩa xã hội, chống làm bom nguyên tử và
chống chiến tranh. Do căm giận Thế chiến II tàn phá nền văn minh nhân
loại, họ muốn lập một chính phủ thế giới để bảo vệ hoà bình. Albert
Einstein, Jean Paul Sartre ... đều ủng hộ ý tưởng này.



Khoa Toán trường MIT thật sự là một “hang ổ” cộng sản. Trưởng khoa, phó
khoa đều là đảng viên đảng Cộng sản Mỹ. Ba người con của Earl Browder
lãnh tụ đảng này đều học khoa Toán ở MIT. Những người ấy về sau đều
nhiệt tình giúp đỡ Nash khi ông đau ốm. Thập niên 50 là thời kỳ chủ
nghĩa chống cộng McCarthy hoành hành, họ đều bị chính quyền Mỹ điều tra.
Nhà trường phải mời luật sư bảo vệ nên họ mới không bị rắc rối. Nỗi căm
giận và sợ hãi bộ máy nhà nước góp phần làm tăng tình trạng tinh thần
thất thường của Nash, ông chỉ muốn đi khỏi nước Mỹ.



Ngoài ra Nash lại còn là một người đồng tính, từng có lần bị cảnh sát
bắt về tội danh này và do đó ông bị công ty RAND cắt hợp đồng làm việc.
Ngày ấy đồng tính là một hiện tượng phạm pháp bị xã hội Anh, Mỹ lên án
nặng nề, dư luận phổ biến cho rằng các điệp viên Xô Viết hay lợi dụng
người đồng tính để lấy cắp bí mật quốc gia. Một thí dụ: nhà toán học Anh
nổi tiếng Alan Turing (1912-1954) tuy có công lao cực lớn trong kháng
chiến chống phát xít Đức nhưng chỉ vì là người đồng tính mà bị chính phủ
Anh buộc thôi việc tại Trung tâm giải mật mã và bị thiến bằng hóa chất,
khiến ông xấu hổ phải tự tử.



Có thể hiểu Alicia khổ sở biết bao khi phải chịu đựng người chồng đã điên dại lại thêm có xu hướng đồng tính.



Tháng 4/1959 Nash bị đưa vào bệnh viện tâm thần khi Alicia đang lo sinh con đầu lòng.

Nghe tin này, các đồng nghiệp của Nash gọi điện thoại cho chuyên gia
bệnh tâm thần giỏi nhất nước Mỹ, yêu cầu ông này “Vì lợi ích của đất
nước, hãy dùng


More: http://www.hsengine.com/s_Rand+Paul.html

No comments:

Post a Comment